Những cống hiến của Trần Phú, Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng ta cho cách mạng Việt Nam, cách mạng Đông Dương

Thứ bảy - 10/06/2017 04:34
Trần Phú sinh năm 1904, trong một gia đình trí thức nho học giàu lòng yêu nước, quê huyện Đức Thọ -Hà Tĩnh, nơi diễn ra phong trào Cần Vương dưới ngọn cờ yêu nước của Phan Đình Phùng, một đỉnh cao của phong trào khởi nghĩa bùng lan hầu khắp đất nước, chống chế độ thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX.

Trong thời gian đảm đương các cương vị lãnh đạo cao nhất của Trung ương Đảng, Trần Phú đã có nhiều cống hiến cho cách mạng Việt Nam, cách mạng Đông Dương, cho Đảng ta.

I. NHỮNG LUẬN ĐIỂM CỦA TRẦN PHÚ VỀ CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ CÁCH MẠNG ĐÔNG DƯƠNG

Tháng 4-1930, Trần Phú về nước theo giới thiệu của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, gặp Ban Chấp hành Trung ương lâm thời nhận công tác. Đồng chí được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, và ít lâu sau, được cử vào Ban Thường vụ Trung ương, chủ trì dự thảo Luận cương chính trị của Đảng, một nhiệm vụ do Nguyễn Ái Quốc đề ra từ sau Hội nghị thành lập Đảng, và nhiều văn kiện khác.

Vận dụng lý luận cách mạng và những kết quả khảo sát của mình tại nhiều vùng công nghiệp, nông nghiệp ở miền bắc, Trần Phú hoàn thành bản dự thảo Luận cương chính trị của Đảng. Văn kiện này được Ban Chấp hành Trung ương lâm thời và một số cán bộ Đảng thảo luận, đóng góp ý kiến trước khi Trần Phú trình bày tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương, tháng 10-1930, ở Hồng Công.

Nghiên cứu tư tưởng chính trị của Trần Phú, chúng tôi cho rằng, cần căn cứ vào Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương, ngoài ra còn phải nghiên cứu nhiều văn kiện khác của Ban Chấp hành Trung ương trong thời gian Trần Phú giữ vai trò chủ chốt điều hành hoạt động của Ban Chấp hành Trung ương lâm thời và làm Tổng Bí thư của Đảng. Một tài liệu của Đảng viết tại Sài Gòn ngày 26-2-1932, ký bút danh Cộng sản, mang tiêu đề Tưởng nhớ đồng chí Trần Phú, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, hiện lưu tại Phòng Lưu trữ Viện Lịch sử Đảng, cung cấp những thông tin đáng tin cậy về vai trò của Trần Phú trong việc hình thành các văn kiện Đảng lúc bấy giờ: "Đồng chí Trần Phú cũng đã tiến hành công việc Bônsêvích hóa Đảng về phương diện lý luận. Trong rất nhiều Án nghị quyết chính trị của Hội nghị toàn thể Trung ương lần thứ I (10-1930) và Hội nghị toàn thể Trung ương lần thứ II (tháng 3-1931) những nguyên tắc, những chiến lược và chiến thuật Bônsêvích được trình bày rất rõ ràng và đúng đắn. Những bản nghị quyết ấy đều do chính tay đồng chí Trần Phú viết hoặc có sự cộng tác dưới sự hướng dẫn của đồng chí (Chúng tôi nhấn mạnh - TG.). Không những trong các án nghị quyết và các chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương mà còn ở trong các sách cổ động và trong báo chí, đồng chí Trần Phú luôn là người bảo vệ bền bỉ những nguyên tắc về lý luận và thực tiễn mácxít - lêninnít và là người kiên quyết chống lại bất cứ một sai lầm nhỏ nào đi chệch đường lối chính trị chung của Quốc tế Cộng sản".

Nghiên cứu các văn kiện Đảng xuất hiện vào thời gian này, có thể thấy rõ những luận điểm nổi bật sau đây của Trần Phú về cách mạng Việt Nam và cách mạng Đông Dương và công tác xây dựng Đảng.

1. Đặt cách mạng Việt Nam và cách mạng Đông Dương trong mối quan hệ chặt chẽ với cục diện cách mạng thế giới, với thời đại mới

Đánh giá những biến đổi quan trọng nhất của tình hình thế giới trong khoảng hơn mười năm từ khi Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) kết thúc, Luận cương chính trị khắc họa hai mặt đối lập của mâu thuẫn cơ bản:

Một bên là chủ nghĩa đế quốc đang lâm vào tình trạng khủng hoảng ngày càng nặng nề, dù có lúc tạm thời ổn định (1923-1928) do tăng cường bóc lột thuộc địa, dẫn tới xung đột gay gắt về thị trường giữa các nước đế quốc và chiến tranh: "Sự tạm thời ổn định của tư bổn đã không thể giữ lại được nữa, mà lại đã trở vào khủng hoảng, thành thử đế quốc chủ nghĩa lại càng phải giành nhau thị trường rất kịch liệt, làm cho trận đế quốc chiến tranh sắp tới không sao tránh khỏi được". Năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, xác nhận tính chính xác của lời tiên đoán ấy.

Một bên là Liên Xô, nơi đang xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội với mức tăng trưởng kinh tế vượt cao hơn thời kỳ trước chiến tranh, càng làm cho chủ nghĩa đế quốc căm tức, muốn đánh đổ Liên bang Xô-viết. Không những vậy, lực lượng đối lập với chủ nghĩa đế quốc còn bao gồm phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản đang dâng cao dưới hình thức bãi công ở các nước Pháp, Đức, Ba Lan. Và tại các nước thuộc địa, phong trào cách mạng cũng phát triển rất rầm rộ, nhất là Trung Quốc và Ấn Độ. Từ thực tế đó, Luận cương chính trị đánh giá: trong thời kỳ này, "cách mạng vô sản và cách mạng thuộc địa đã lên đến trình độ rất cao, có nơi đã sắp sửa cướp chánh quyền".

Khái quát cục diện cách mạng thế giới như trên thể hiện một cách nhìn sắc sảo về thời đại mới được đánh dấu bằng thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Liên Xô; đồng thời, phong trào cách mạng vô sản và phong trào cách mạng giải phóng thuộc địa đang cùng tiến triển trong mối quan hệ chặt chẽ. Chủ nghĩa đế quốc lâm vào mâu thuẫn gay gắt, nảy sinh từ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, từ sự cạnh tranh lợi ích giữa các nước đế quốc và sự xung đột giữa nhà tư bản với giai cấp vô sản, giữa các nước đế quốc với thuộc địa và Liên Xô. Và đến thời điểm này, chiều hướng phát triển của thời đại mới, dù Trần Phú chưa sử dụng khái niệm này, là sự lớn mạnh của Liên Xô, của cách mạng vô sản và cách mạng thuộc địa. Cách mạng Đông Dương đã gia nhập các trào lưu cách mạng thế giới, góp phần mở rộng trận địa công nông và nhân dân thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc. Về phần mình, cách mạng Đông Dương lại nhận được những ảnh hưởng tích cực của cách mạng thế giới, nhất là cách mạng Trung Quốc và Ấn Độ "làm cho phong trào cách mạng ở Đông Dương càng ngày càng phát triển". Vậy nên cách mạng thế giới và cách mạng Đông Dương rất có quan hệ với nhau.

2. Xác định con đường phát triển của cách mạng Việt Nam và cách mạng Đông Dương là tiến hành cách mạng tư sản dân quyền, tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa

Xuất phát từ sự đánh giá tình hình Đông Dương, bao gồm ba xứ Việt Nam, Cao Miên và Lào, Luận cương chính trị xác định rõ hai đặc điểm: chế độ thuộc địa của đế quốc Pháp là trở lực cho sự phát triển độc lập của dân tộc; ách áp bức, bóc lột của đế quốc và phong kiến địa chủ khiến mâu thuẫn giai cấp giữa thợ thuyền, dân cày và quần chúng lao khổ với địa chủ, phong kiến và tư bản, đế quốc càng thêm gay gắt.

Trên lĩnh vực kinh tế, Đông Dương chịu sự thống trị của chế độ thuộc địa với hình thức khai thác, kinh doanh tư bản chủ nghĩa kết hợp chặt chẽ với cách bóc lột phong kiến, nhằm vơ vét tối đa lương thực xuất khẩu, biến công nghiệp Đông Dương phụ thuộc vào kinh tế Pháp. Hoạt động xuất khẩu cũng nằm trong tay các nhà tư bản Pháp; ngành buôn bán, sản xuất và ngân hàng cũng hướng vào mục tiêu đó.

Nhìn tổng quát, Luận cương chính trị cho rằng: "Kinh tế Đông Dương cũng vẫn là kinh tế nông nghiệp, mà trong kinh tế ấy thì những lối phong kiến lại chiếm địa vị trọng yếu. Tất cả những điều kiện ấy làm cho kinh tế Đông Dương không có thể phát triển độc lập được".

Quan hệ chặt chẽ với mâu thuẫn kinh tế là mâu thuẫn giai cấp. Luận cương chính trị chỉ rõ: giai cấp nông dân bị đế quốc, địa chủ chiếm đoạt phần lớn ruộng đất, biến họ thành tá điền, con nợ, phải nạp tô và lãi ở mức rất cao. Họ bị đẩy vào cảnh thất nghiệp, nhưng khó có thể trở thành công nhân do công nghiệp phát triển rất chậm.

Còn giai cấp công nhân thì bị bóc lột tàn bạo và bị ngược đãi, không được hưởng một chút bảo hiểm xã hội nào, không được chăm sóc, bảo vệ sức khỏe, khiến cho số đông công nhân Đông Dương bị bệnh nguy hiểm và chết non ngày càng nhiều.

Đời sống cơ cực của công, nông làm gia tăng mâu thuẫn giai cấp ở Đông Dương và bùng nổ ngày càng mạnh mẽ, dồn dập phong trào thợ thuyền và dân cày, được biểu hiện ở những cuộc bãi công trong các năm 1928-29, những cuộc tranh đấu rất dữ dội của thợ thuyền và dân cày trong năm nay (1930) đã chứng tỏ ra rằng sự tranh đấu giai cấp ở Đông Dương ngày càng bành trướng.

Những mâu thuẫn dân tộc và giai cấp phát triển đến mức gay gắt và chỉ có thể giải quyết được bằng cách mạng tư sản dân quyền, thực hiện cách mạng ruộng đất, xóa bỏ quan hệ sản xuất phong kiến, đưa lại ruộng đất cho nông dân; chống đế quốc, lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân và chế độ phong kiến, giành quyền độc lập dân tộc. "Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng. Tư sản dân quyền cách mạng được thắng lợi, chánh phủ công nông đã dựng lên rồi, thì công nghiệp trong nước được phát triển, các tổ chức vô sản được thêm mạnh, quyền lãnh đạo của vô sản sẽ thêm kiên cố, sức mạnh giai cấp tương đương sẽ nặng về phía vô sản. Lúc đó sự tranh đấu sẽ thêm sâu, thêm rộng, làm cho cách mạng tư sản dân quyền tiến lên con đường cách mạng vô sản... xứ Đông Dương sẽ nhờ vô sản giai cấp chuyên chánh các nước giúp sức cho mà phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa". Đây là luận điểm cơ bản và quan trọng nhất, xuất phát từ lập trường cách mạng của giai cấp vô sản, quan điểm cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phù hợp với điều kiện cụ thể của Đông Dương. Nét sáng tạo nổi bật của luận điểm đó là kết hợp sự nghiệp giải phóng dân tộc với sự nghiệp giải phóng công nông và nhân dân lao động; giải phóng dân tộc và phát triển đất nước phù hợp với quy luật vận động của thời đại mới.

... Giá trị lịch sử to lớn của Luận cương chính trị được kiểm nghiệm trong thực tiễn đấu tranh của Đảng ta và nhân dân ta, đúng như nhận xét của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dịp kỷ niệm lần thứ 30 Ngày thành lập Đảng ta: "Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Đảng đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn. Trong bản Cương lĩnh cách mạng tư sản dân quyền năm 1930 (tức bản Luận cương chính trị - TG.), Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến,thực hiện dân tộc độc lập, người cày có ruộng. Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường".

II. NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ SỰ CHỈ ĐẠO THỰC TIỄN CỦA TRẦN PHÚ VỀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CÔNG TÁC DÂN VẬN

Nhiều văn kiện Đảng ban hành nửa cuối năm 1930 đầu năm 1931 đã thể hiện rõ quan điểm của Trung ương Đảng và của Tổng Bí thư Trần Phú về công tác xây dựng Đảng. Luận cương chính trị khẳng định: "Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lê-nin làm gốc mà đại biểu quyền lợi chánh và lâu dài, chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông Dương, và lãnh đạo vô sản giai cấp Đông Dương ra tranh đấu để đạt được mục đích cuối cùng của vô sản là chủ nghĩa cộng sản".

Những vấn đề cơ bản về công tác tổ chức, xây dựng Đảng được phản ánh rõ trong Điều lệ Đảng do Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương thông qua. Điều lệ xác định điều kiện và phương pháp kết nạp đảng viên: "Hễ ai thừa nhận Chương trình và Điều lệ của Q.T.C.S (Quốc tế Cộng sản -TG.) và của Đảng và tham gia vào một chi bộ của Đảng mà làm việc và phục tùng hết thảy án nghị quyết của Q.T.C.S và của Đảng, và nộp đảng phí thì được vào Đảng". Đảng viên vào Đảng "do chi bộ nhận và phải có thượng cấp kế đó y cho". Đảng lấy nguyên tắc dân chủ tập trung làm nguyên tắc tổ chức của Đảng. Điều lệ quy định cụ thể hệ thống tổ chức của Đảng, cơ cấu tổ chức, quyền hạn, trách nhiệm của các cấp bộ đảng và mối quan hệ giữa các cấp bộ. Điều lệ Đảngcũng nêu rõ sự lãnh đạo của Đảng đối với Công hội, Nông hội, Đoàn thanh niên và các đoàn thể khác.

Về kỷ luật Đảng, Điều lệ Đảng vừa xác định trách nhiệm của đảng viên và cấp bộ đảng là phải chấp hành một cách rất nghiêm khắc các nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, của Đại hội Đảng, của Trung ương Đảng và các cơ quan cấp trên, vừa tôn trọng quyền tự do thảo luận các vấn đề trong Đảng khi chưa có nghị quyết.

Một vấn đề quan trọng nổi bật của công tác xây dựng Đảng trong khoảng cuối năm 1930 đầu năm 1931 là, một mặt Ban Chấp hành Trung ương chủ trương kết nạp thêm nhiều công nhân vào Đảng, mặt khác, cũng là lúc phải uốn nắn một sai lầm nghiêm trọng của Xứ ủy Trung Kỳ: thanh trừ những đảng viên thuộc các thành phần trí, phú, địa, hào. Bản Chỉ thị của Trung ương gửi Xứ ủy Trung Kỳ về vấn đề thanh Đảng Trung Kỳ phản ánh quan điểm của Trung ương Đảng và của Tổng Bí thư Trần Phú, cho dù khi ban hành chính thức văn kiện này, ngày 20-5-1931, Trần Phú đã bị chính quyền thực dân bắt giam hơn một tháng. Ở đây có thể thấy rất rõ sự đồng nhất quan điểm đánh giá thái độ cảm tình và ủng hộ cách mạng của nhiều người trong hàng ngũ trí thức, trung, tiểu địa chủ, phú nông tại Chỉ thị của Trung ương Thường vụ về vấn đề thành lập Hội "Phản đế đồng minh" ngày 18-11-1930, và Chỉ thị của Trung ương gửi Xứ ủy Trung Kỳ về vấn đề thanh Đảng Trung Kỳ. Chỉ thị của Trung ương Thường vụ về vấn đề thành lập Hội "Phản đế đồng minh" viết: "Ở Trung Kỳ thì Nghệ Tĩnh đã thành một cao trào cách mạng đỏ, mà trong các tầng lớp trên đã phân hóa, có một tụi đã ôm chân đế quốc chặt chẽ phản lại dân tộc, ra làm bang tá, đoàn dũng để giết hại phong trào. Tuy vậy không nhiều, mà ngược lại các tầng lớp trí thức và một số sĩ phu, một số trung tiểu địa chủ lại có xu hướng cách mạng rõ ràng.

Qua khủng bố trắng dữ dội, họ vẫn cố gắng bám lấy cách mạng và âm thầm ủng hộ cách mạng, nhất là tiểu địa chủ và phú nông, trung nông hạng trên. Một số nhà nho bần hàn cũng cảm tình với cách mạng...

Trong Nghệ Tĩnh thì địa chủ và phú nông cùng một số quan lại nhỏ, nói đúng sĩ phu nhỏ trong nông thôn đã phân hóa, và một số lớn đã nghiêng về cách mạng".

... Chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy một nhận xét tương tự như trên trong Chỉ thị của Trung ương gửi Xứ ủy Trung Kỳ về vấn đề thanh Đảng Trung Kỳ: "Đảng Cộng sản Đông Dương xuất phát từ chỗ giác ngộ phản đế, ghét Pháp từ trước tới nay, nên trong hàng ngũ Đảng có những thù gia tử đệ, cựu nho, trung, tiểu địa chủ, phú nông, trung nông ở nông thôn và một số giáo viên, học sinh chữ Pháp và một số tiểu thương, tiểu chủ hay con nhà tiểu thương, tiểu chủ ở thành thị, cùng với một số thợ xí nghiệp, một số công chức, tổ chức hỗn hợp lại trong một phong trào".

Sau Hội nghị lần thứ nhất bốn tháng, trong hoàn cảnh bị địch khủng bố rất ác liệt, Trần Phú và Ban Chấp hành Trung ương vẫn kịp thời chuẩn bị các văn kiện cho Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tháng 3-1931. Trọng tâm của Hội nghị này là công tác tổ chức của Đảng, của các đoàn thể và công tác tư tưởng trong cuộc đấu tranh chống địch đàn áp, khủng bố phong trào cách mạng và các thủ đoạn lừa bịp của chúng. Các văn kiện trên do Trần Phú trình bày tại Hội nghị Trung ương. Đánh giá tình hình lãnh đạo của Đảng, án nghị quyết của Trung ương toàn thể Hội nghị lần thứ hai cho rằng, Đảng đã "chỉ huy hết thảy sự tranh đấu của quần chúng, đã khuếch trương nền tảng tổ chức cách mạng ra và đã ảnh hưởng càng ngày càng rộng trong quần chúng công nông". Song, những thắng lợi đó chưa được bao nhiêu và chủ yếu là do "nền tư tưởng trong Đảng còn rất nhiều di tích tiểu tư sản, đầu cơ, biệt phái". Nghị quyết chỉ rõ hạn chế cơ bản đang tồn tại phổ biến trong Đảng là chưa nhận thức đúng vai trò lịch sử của giai cấp vô sản và chức năng lãnh đạo của Đảng: "Có nhiều đảng viên (như ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ) còn hiểu rằng Đảng Cộng sản là đảng của quần chúng lao khổ mà không biết rằng Đảng Cộng sản chỉ là đảng của vô sản giai cấp mà thôi mà chức trách của Đảng Cộng sản là làm hướng đạo cho vô sản giai cấp làm cách mạng vô sản". Nghị quyết còn giải thích sáng tỏ lập trường cách mạng của Đảng và nêu ra phương pháp hoạt động khắc phục hạn chế trên: "Tuy Đảng chỉ huy cho nông dân cho hết thảy quần chúng lao khổ làm cách mạng tư sản dân quyền nhưng Đảng vẫn là đảng của vô sản giai cấp, nghĩa là đứng về lợi ích cách mạng vô sản mà chỉ huy, lấy chính sách vô sản mà chỉ huy chứ không phải là vì Đảng đại biểu lợi ích cho tiểu tư sản quần chúng, đại biểu cho xu hướng tư hữu chế độ".

Án nghị quyết của Trung ương toàn thể Hội nghị lần thứ hai nhấn mạnh phải thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc tổ chức Đảng. Đảng phải bao gồm những công nhân tiên tiến nhất; mỗi đảng viên phải là người hăng hái hoạt động, tham gia sinh hoạt Đảng và công việc của Đảng, trở thành một phần tử hoạt động của Đảng. Kỷ luật của Đảng là kỷ luật sắt dựa trên nguyên tắc dân chủ tập trung. Trong chỉ đạo xây dựng tổ chức Đảng, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương rất chú trọng lãnh đạo xây dựng kiện toàn các Xứ ủy và nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng chi bộ. Hội nghị cho rằng: "Chi bộ là cơ sở của Đảng. Nếu chi bộ mà không biết làm việc thì Đảng không phát triển được; cho nên chi bộ cần phải tổ chức sanh hoạt cho náo nhiệt và cho có kế hoạch. Ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng mạnh hay yếu, trình độ chánh trị và hoạt động của đảng viên cao hay thấp cũng theo trình độ sanh hoạt của chi bộ cao hay thấp".

Dưới sự chỉ đạo của Tổng Bí thư Trần Phú, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương còn quyết nghị nhiều chủ trương quan trọng về công tác tuyên truyền của Đảng nhằm khắc phục "trình độ lý luận của Đảng còn thấp kém, nền tư tưởng còn chưa vững bền, nhân tài để làm việc Đảng còn rất hiếm". Nhiệm vụ quan trọng nhất của công tác đó là tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong Đảng và trong quần chúng vô sản để nâng cao trình độ lý luận của đảng viên, để xây dựng nền tảng tư tưởng vô sản trong Đảng và trong quần chúng vô sản và đào tạo một lớp nhân tài vô sản cho Đảng.

Công tác xây dựng Đảng, theo quan điểm và sự chỉ đạo thực tiễn của Tổng Bí thư Trần Phú và Ban Chấp hành Trung ương, phải gắn kết chặt chẽ với công tác xây dựng các đoàn thể quần chúng và công tác dân vận. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác định: "việc tổ chức các đoàn thể quần chúng cũng là nằm trong phạm vi công việc tổ chức của Đảng, cũng là một việc phải chú ý, lưu tâm như là việc tổ chức của Đảng vậy".

Những quan điểm xây dựng Đảng của Trung ương và Tổng Bí thư Trần Phú có quan hệ chặt chẽ với chủ trương xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất được thể hiện rõ nét trong Chỉ thị của Trung ương Thường vụ về vấn đề thành lập Hội "Phản đế đồng minh" ngày 18-11-1930. Chỉ thị phê phán những quan điểm hẹp hòi trong công tác tổ chức các đoàn thể quần chúng, thiếu những biện pháp mềm dẻo cần thiết để thu hút rộng rãi tất cả các giai cấp, tầng lớp xã hội kể cả trung, tiểu địa chủ, phú nông, quan lại nhỏ, trí thức, tư sản có tinh thần chống đế quốc vào mặt trận đại đoàn kết dân tộc rộng rãi, dựa trên cơ sở liên minh công - nông vững chắc. Thường vụ Trung ương còn hướng dẫn cách tổ chức mặt trận phù hợp với tình hình cụ thể của từng địa phương. Những quan điểm và chủ trương đó phản ánh khả năng tổng kết, nắm bắt kịp thời những vấn đề rất quan trọng về chính trị - xã hội mới xuất hiện trong thực tiễn cách mạng của Trung ương Đảng và Tổng Bí thư Trần Phú.

Cống hiến của Trần Phú về công tác xây dựng Đảng và công tác dân vận được nêu trong bài Tưởng nhớ đồng chí Trần Phú, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương: "Dưới sự lãnh đạo cương quyết của đồng chí Trần Phú, Đảng ta đã trở thành một đảng quần chúng thực sự và đã tiến hành những công việc lớn lao về tổ chức và lãnh đạo các tầng lớp quần chúng đông đảo trong cuộc đấu tranh cách mạng". Những số liệu phát triển tổ chức mà hiện nay chúng ta biết được đã xác nhận sự đúng đắn của nhận xét trên. Đến cuối năm 1930, hệ thống tổ chức đảng từ Ban Chấp hành Trung ương đến cấp xứ và phần lớn tỉnh, thành cả nước được thành lập. Theo số liệu thống kê bước đầu, ở Bắc Kỳ đã hình thành 17 tỉnh ủy, thành ủy và đặc khu ủy; ở Trung Kỳ có 9 tỉnh ủy; và ở Nam Kỳ cũng đã thành lập 21 tỉnh ủy, thành ủy, liên tỉnh ủy. Tại nhiều vùng nông thôn, nhà máy, hầm mỏ, đồn điền đã có cơ sở đảng. Số lượng đảng viên của Đảng tính đến Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 10-1930) là khoảng 1.600; 5 tháng sau, khi diễn ra Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tháng 3-1931, số đảng viên đã tăng thêm khoảng 800, nâng tổng số đảng viên lên khoảng 2.400. Đảng cũng phát huy mạnh mẽ ảnh hưởng của mình trong sự phát triển của Nông hội, Công hội. Tính đến 1-5-1930 có tổng số khoảng 53.000 hội viên Nông hội, tháng 3-1931 lên đến khoảng 64.000 hội viên. Số hội viên Công hội đỏ đến tháng 4-1931 có khoảng 6.000 (*) .

Sự phát triển về tổ chức và công tác tuyên truyền giáo dục lý luận, đường lối, chủ trương của Đảng là nhân tố quyết định đưa phong trào đấu tranh của quần chúng chống khủng bố trắng của nhà cầm quyền thực dân tiếp tục tiến triển. Cho dù đến đầu tháng 5-1931, các Ủy viên Trung ương Đảng đều bị bắt, phong trào đấu tranh của quần chúng bị lắng xuống, song kẻ thù không thể tiêu diệt được Đảng, bẻ gẫy ý chí đấu tranh và niềm tin vào Đảng của quần chúng, và sau đó một thời gian, tổ chức đảng, đoàn thể quần chúng lại hồi phục và tiếp tục phát triển sự nghiệp đấu tranh cách mạng trong cao trào 1936-1939.

(*) Các số liệu này tổng hợp từ hai nguồn: Văn kiện Đảng toàn tập, t.4, tr.409 và bài viết "Tưởng nhớ đồng chí Trần Phú, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương" của tác giả "Cộng sản" lưu trữ tại hồ sơ Quốc tế Cộng sản.

Nguồn GS, NGND NGUYỄN ĐỨC BÌNH

Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng

Nguồn tin: hatinhnews.com

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây