Hàm Nghi lên ngôi trong hoàn cảnh chủ quyền đất nước bị đe dọa, nội bộ triều chính bất hòa, phe chủ chiến do Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường thắng thế, triều đình rơi vào khủng hoảng trầm trọng người kế vị. Trong vòng 1 năm (từ 7/1883-7/1884) triều đình Huế đổi chủ ba lần. Cũng trong khoảng thời gian này, triều Nguyễn đã ký hiệp ước Harmand (25/8/1883) và Hòa ước Patenôtre (6/6/1884) với Pháp.
Lên ngôi thụ động, 4 năm lăn lộn chốn rừng thiêng nước độc
Trong tác phẩm Vua Hàm Nghi, tác giả Phan Trần Chúc (1907-1946), cho biết sau khi lên ngôi một thời gian ngắn, vua Hàm Nghi phải trải qua 4 năm lăn lội nơi rừng thiêng nước độc để nuôi dưỡng và khơi mào các cuộc khởi nghĩa chống Pháp, cuối cùng ông bị bắt và bị Pháp đầy ở Algérie.
Ngày 1/8/1884, Nam triều lập Ưng Lịch lấy hiệu là Hàm Nghi. Ưng Lịch là con Kiên Thái Vương (Nguyễn Phúc Hồng Cai) và là em ruột vua Kiến Phúc, không được nuôi và dạy trong cung như 2 anh Chánh Mông và Dưỡng Thiện, cha chết sớm trong cảnh hàn vi với mẹ ngoài thành.
Hình ảnh cựu hoàng Hàm Nghi khi ông bị lưu đày tại Algeria năm 1889, in trên tạp chí Du hành (Journal des Voyages) của Pháp. Ảnh tư liệu. |
Năm 1884, Ưng Lịch mới 14 tuổi, cái tuổi còn ham đánh khăng với trẻ con hàng xóm hơn là lo chuyện triều đình. Một buổi sáng, sứ giả đến đón vào cung, bắt gặp Ưng Lịch ăn mặc rách rưới đang nô đùa với trẻ ở ngoài đường. Sứ giả đưa mũ áo ra bảo thay, cậu bé run lẩy bẩy không dám mặc, cũng không dám cầm lấy.
Tác giả Phan Trần Chúc cho biết, khi lập vua Hàm Nghi, Nam triều cũng không hỏi ý kiến lãnh sự Pháp, nên đã gây nên những bất đồng Việt - Pháp. Mặc dù, sau đó, mọi việc cuối cùng cũng được dàn xếp, thế nhưng sự bất đồng giữa hai bên không chấm dứt.
Tình hình trở lên căng thẳng khi phía Pháp quyết hạ Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường để nhằm giải quyết vấn đề Việt Nam. Còn Tường, Thuyết vẫn nuôi ý định thoát khỏi sự khống chế của người Pháp.
Đầu tháng 5/1885, Thống soái De Courcy vào Huế, Tường, Thuyết quyết một phen và chuẩn bị khai chiến. Ngược lại, De Courcy cũng nhân dịp này muốn bắt sống Tôn Thất Thuyết. Rạng sáng ngày 23/5/1885, hai bên giao tranh, quân Nguyễn tấn công trước, xong phần lớn không trúng mục tiêu, quân Pháp ở Mang Cá tấn công trực diện vào Hoàng cung, Kinh thành Huế thất thủ. Tôn Thất Thuyết đem vua Hàm Nghi và Từ Dụ Thái hậu chạy trốn về Quảng Trị. Sau đó, Từ Dụ Thái hậu trở về Huế, còn Hàm Nghi theo Tôn Thất Thuyết lên Tân Sở. Quân sĩ lúc ấy còn khoảng 500 người.
Khi kinh thành thất thủ, Nguyễn Văn Tường không theo xa giá mà ở lại điều đình với De Courcy. Viên thống soái này cũng muốn sử dụng cái uy của Tường để chiêu dụ Hàm Nghi, tuy nhiên việc không thành, sau 2 tháng Tường bị đày ra Côn Đảo, tiếp đó đưa đi Tahiti thì bị bệnh chết.
Ngay sau khi mới chạy ra Quảng Trị, Thuyết thông báo đi các tỉnh, yêu cầu quan lại tổ chức đội quân Cần Vương. Đảng văn thân ở các tỉnh đồng thời nổi lên.
Ngày 19/9/1885, De Courcy đưa Kiến Giang Công Ưng Kỵ (Chánh Mông) lên ngôi Hoàng đế. Lấy hiệu là Đồng Khánh.
Tôn Thất Thuyết định đưa vua ra Quảng Bình nhưng bị quân Pháp chặn đường phải lánh sang Lào, sau theo đường Quy Hợp về Hà Tĩnh, dùng Ấu Sơn làm đại doanh. Tại đây, Tôn Thất Thuyết sai thảo tờ chiếu Cần Vương lấy chữ vua Hàm Nghi phê chuẩn và gửi đi các tỉnh. Chiếu đề ngày 11/8 năm Hàm Nghi thứ Nhất.
Đầu năm 1886, Tôn Thất Thuyết để cho hai con trai của mình là Tôn Thất Thiệp và Tôn Thất Đạm tiếp tục duy trì “triều đình Hàm Nghi” chống Pháp, còn ông sang Tàu tìm đường cầu viện.
Mùa hè năm 1887, Trương Quang Ngọc (theo hộ giá vua Hàm Nghi) bị mua chuộc bắt đầu nảy mưu phản. Tháng 9/1888, thêm tên Nguyễn Tinh Đình ra hàng và khai chỗ ở của vua Hàm Nghi. Ngày 1/11/1888 (nhiều sách chép khác nhau), Trương Quang Ngọc và Nguyễn Tinh Đình mang 20 tên Mường vác nỏ gươm giáo lên phía Chà Mạc, giết chết Tôn Thất Thiệp bắt vua Hàm Nghi. Tôn Thất Đạm tự vẫn.