Nhiều loại trái cây Thái đang cạnh tranh trực tiếp với trái cây Việt 
Số liệu từ Tổng cục Hải quan cho thấy trong 2 tháng đầu năm, VN chi   164 triệu USD (tương đương 3.720 tỉ đồng), tăng 54,7% so cùng kỳ năm   2016, để nhập rau củ quả. Tính trung bình, mỗi ngày người Việt đang chi 62 tỉ đồng để mua rau quả ngoại.
   Trái cây nhập từ Thái tăng gấp đôi
  Trong đó, lớn nhất là thị trường Thái Lan, trong 2 tháng VN nhập   khẩu các mặt hàng rau củ quả từ thị trường này lên đến 82,6 triệu USD,   chiếm hơn 50% giá trị nhập khẩu rau củ quả của cả nước (tương đương 31   tỉ đồng/ngày). Sau Thái Lan, nhập rau quả từ Trung Quốc đạt 31 triệu   USD, chiếm hơn 19% giá trị nhập khẩu cả nước. Tính chung, rau củ quả   nhập từ Thái và Trung Quốc chiếm gần 70% tổng kim ngạch nhập khẩu các   mặt hàng này của cả nước.             
  |                       
  |                   |            Đã đến lúc nhà sản xuất và phân phối trong   nước phải nhắm đến thị trường trái quả nội địa với 93 triệu dân để trái   cây, rau quả Việt không bị lép vế tại sân nhà       |        |                 
  |                 |       Chuyên gia thương mại Vũ Vinh Phú, Chủ tịch Hiệp hội Siêu thị Hà Nội       |                 
  |                     |    
     
  
     Như vậy, chỉ trong 2 tháng đầu năm, nhập khẩu rau củ quả từ Thái   Lan về VN tăng hơn 42 triệu USD, gấp đôi so cùng kỳ năm trước. Chi đến   31 tỉ đồng để mua trái cây Thái mỗi ngày, song với người tiêu dùng Việt,   thông tin về trái cây có xuất xứ từ Thái Lan lại khá mơ hồ, đa số đều   cho rằng đó là trái cây Việt giống của Thái.
  Sáng 14.3, chị Nguyễn Thị Hồng (Q.1, TP.HCM) đang lựa mua xoài keo   Thái tại chợ Bến Thành tỏ ra băn khoăn: “Hình như xoài này giống Thái   trồng tại VN, cả nhà tui đều thích giống xoài này bởi ăn giòn, ngọt   thích hơn giống xoài Việt”. Tuy nhiên, bà Hai Thảo, người bán trái cây   tại chợ, khẳng định xoài này được nhập từ Thái Lan 100% chứ không phải   giống Thái trồng tại VN. Ngoài xoài, bà Thảo cho biết các loại trái cây   “trái vụ” đang bán tại chợ như măng cụt, bòn bon, chôm chôm, quýt vàng,   nhãn và cả táo xanh nhỏ đa số là hàng Thái.
  Không chỉ tại chợ, ngay tại siêu thị, cách “rao” hàng cũng khiến   người tiêu dùng có sự nhầm lẫn. Tại siêu thị Co.op Mart Nguyễn Đình   Chiểu (Q.3, TP.HCM), trưa 14.3, chị Phan Thanh Minh cầm gói 500 gr me   Thái với giá 65.000 đồng phân vân: “Mình biết hàng này là của Thái,   ngoài bao bì ghi rõ là me ngọt Thái Lan nhưng không hiểu sao, bảng giá   treo trên kia lại ghi hàng xuất xứ VN”. Đúng như lời chị Minh, trên bao   bì gói me ngọt Thái Lan ghi sản phẩm, đóng gói và phân phối bởi một công   ty thương mại tổng hợp tại TP.HCM, song bảng giá trên quầy lại ghi me   ngọt Thái xuất xứ VN. “Người bán thường rao là giống Thái trồng tại VN   cho người mua có cảm giác hàng tươi mới. Đặc biệt với khách du lịch, đến   VN mua trái cây Việt ăn thì đúng hơn là ăn trái cây Thái, nên cứ giới   thiệu vậy lâu riết thành quen”, bà Thảo lý giải.
  Theo ông Hùng - nhà cung cấp sỉ trái cây   các loại tại chợ đầu mối nông sản Thủ Đức (Q.Thủ Đức, TP.HCM), trái cây   Thái thường ngọt, ít hạt, hoặc hạt lép nên đắt gấp đôi người mua vẫn   thích hơn trái cây Việt cùng loại. Chợ Miệng Kênh (Pak Khlong Talat) là   chợ bán sỉ các loại rau hoa quả lớn nhất ở Bangkok (Thái Lan), hoạt động   24/24 giờ, là nơi cung cấp nguồn trái cây xuất khẩu cho nhiều thị   trường trong đó có VN. “Trái cây được đưa về tập trung tại chợ này bạt   ngàn, muốn bao nhiêu cũng có, hàng tốt xấu được giới thiệu rõ ràng,   không dễ bị nhầm. Chợ lại tổ chức có tour khách du lịch tham quan nữa,   nên sang đó nhìn chợ rất thích, sạch sẽ không nhếch nhác như các chợ đầu   mối nông sản Việt lẫn lộn hàng ngon dở vậy đâu”, ông Hùng cho biết.
   Trái ngoại đè trái nội
  Chuyên gia thương mại Vũ Vinh Phú, Chủ tịch Hiệp hội Siêu thị Hà   Nội, phân tích ngoài năng lực cạnh tranh, năng suất thấp do sản xuất   manh mún, trái cây Việt đang đối diện nghịch cảnh “chính người Việt đang   tự hại lẫn nhau” bằng việc người trồng phun thuốc trừ sâu vô tội vạ,   ngâm tiêm thuốc kích thích quả chín sớm. Thứ nữa, chính các siêu thị   trong nước lại đòi hỏi mức chiết khấu quá cao, từ 15 - 20%, rồi phí tạo   mã hàng cho một sản phẩm lên đến 20 triệu đồng, chi hỗ trợ dịp sinh nhật   siêu thị, chi cho đứng đầu kệ (nếu không sẽ bị “nhét” vào dưới gầm   quầy) khiến hàng Việt thất thế.             
  |                       
  |                           GS Nguyễn Quốc Vọng, chuyên gia nông nghiệp   cho rằng VN có nhiều tiềm năng cho sản phẩm rau quả, nhưng đất đai phần   lớn lại tập trung cho mặt hàng lúa gạo, mang lại giá trị gia tăng không   cao. Ngành nông nghiệp khi đã xác định lại chiến lược sản xuất và xuất   khẩu rau quả thế nào sẽ có quy hoạch và các biện pháp hỗ trợ kèm theo   với ngành này tương xứng.             |                 
  |                     |    
     
  
     Chuyên gia tư vấn chiến lược Đỗ Hòa cho rằng trái cây Việt ngoài   một số sản phẩm được chọn xuất khẩu thì đa số các mặt hàng trùng với   trái cây Thái đều không có thương hiệu, sản xuất manh mún và ngay ngành   nông nghiệp trong nước cũng chưa có các động tác đồng bộ tập trung cho   sản phẩm trái cây, công bố trái nào đạt chất lượng để người tiêu dùng   biết. Ngay hệ thống phân phối trong nước chưa đồng hành với nhà sản xuất   trái cây nội khiến người trồng ra không biết bày bán cho ai, ngoài việc   bán ngoài lề đường, đưa vào chợ.
  Theo ông Phú, việc tổ chức lại sản xuất bằng cơ giới hóa là điều   quan trọng cho trái cây Việt. Ngoài ra, sản phẩm phải được tổ chức bằng   mô hình liên kết như một số nhà đầu tư nông nghiệp công nghệ cao với   ngành rau đang làm là đầu tư và thu mua tại chỗ, tránh sản phẩm đi lòng   vòng… Bên cạnh đó, phải giành lại mạng lưới phân phối, hỗ trợ nhà bán lẻ   trong nước có đầu tư và thu mua trái cây Việt. Đầu tư nghiên cứu về   giống trái quả có hệ thống và kiểm soát việc đưa vào ứng dụng… Quan   trọng hơn là kiểm soát chặt nguồn hàng nhập khẩu bằng các công cụ kiểm   nghiệm vệ sinh an toàn thực phẩm, áp dụng pháp luật nếu cơ quan gác cổng   quản lý theo kiểu “mắt nhắm mắt mở” cho hàng trái cây kém chất lượng   tuồn vào VN. Ông Phú nhận xét thêm: Hàm lượng đầu tư chất xám để phát   triển công nghệ giống trái cây của VN chưa thực sự được coi trọng hay   nói đúng hơn chưa phối hợp nhịp nhàng với nhu cầu thị trường nên giá trị   gia tăng của sản phẩm thấp.
  Đặc biệt, tình trạng “lệch pha”, nhà nghiên cứu cứ nghiên cứu,   người trồng cứ trồng và nhà phân phối cứ sản phẩm nào có lợi nhuận tốt   thì chọn khiến hàng Việt thất sủng. Đã đến lúc nhà sản xuất và phân phối   trong nước phải nhắm đến thị trường trái quả nội địa với 93 triệu dân   để trái cây, rau quả Việt không bị lép vế tại sân nhà.
Theo Hằng Nga Thanh niên