Dưới chân đèo Ô Quy Hồ, vắt qua dãy Hoàng Liên Sơn hùng vĩ, bản Chu Va 12 xã Bình Lư, tỉnh Lai Châu nép mình bên dòng suối lạnh. Nơi đây từng là vùng đất đặc biệt khó khăn, nơi đồng bào dân tộc thiểu số quanh năm chỉ biết đến nương ngô, ruộng lúa. Cuộc sống xưa kia của bà con bấp bênh và thiếu thốn, thu nhập chủ yếu dựa vào vài sào nương rẫy khô cằn trên núi dốc.
Nhưng nhiều năm nay, nhờ tận dụng lợi thế từ nguồn nước suối tự nhiên mát lạnh quanh năm từ dãy Hoàng Liên Sơn, người dân nơi đây đã mạnh dạn phát triển nghề nuôi cá nước lạnh, chủ yếu là cá tầm. Từ đó, mang lại hiệu quả kinh tế, giúp nhiều hộ đồng bào vùng sâu xóa đói giảm nghèo và vươn lên làm giàu.
Trại cá tầm của gia đình ông Đỗ Chí Đoàn ở bản Chu Va 12, xã Bình Lư, tỉnh Lai Châu. Ảnh: Tú Thành.
Dưới thung lũng ở bản Chu Va 12, những bể nuôi cá bằng xi măng và bể composite xuất hiện ngày càng nhiều. Nhờ các trại cá tầm, dân bản có việc làm thường xuyên, nay nhiều gia đình đã có của ăn của để, con cái được học hành đầy đủ hơn.
“Vua cá tầm” ở Chu Va 12
Giữa vùng núi non heo hút ấy, gia đình ông Đỗ Chí Đoàn là một điển hình, tiên phong, gắn bó hơn chục năm với mô hình nuôi cá nước lạnh quy mô lớn. Trại cá Đoàn Hương của ông nằm ngay dưới chân đèo Ô Quy Hồ, được xem là trang trại cá tầm lớn nhất, nhì vùng này, đủ để người dân ưu ái gọi ông bằng biệt danh “vua cá tầm” xứ Lai Châu.
Bén duyên với nghề từ năm 2011, ông Đoàn bắt đầu với vỏn vẹn 5 bể nuôi cá trên khu đất hoang sơ đầy đá sỏi của bản Chu Va 12. Thuở ấy, khái niệm “cá nước lạnh” còn rất mới mẻ ở Lai Châu, kỹ thuật nuôi cá tầm, cá hồi hầu như chưa ai nắm vững. Khởi nghiệp bằng đôi bàn tay trắng nơi vùng đất khó, ông Đoàn đã trải qua những ngày tháng vô cùng gian nan.
“Thời gian đầu làm gặp nhiều khó khăn lắm. Thứ nhất là thiếu vốn, thứ hai là thiếu kinh nghiệm; kỹ thuật chăm sóc cá tầm, cá hồi lúc đó chưa có, mình chỉ làm mò mẫm theo kinh nghiệm nuôi cá truyền thống”, ông Đoàn nhớ lại.
Đặc biệt, sau một vài năm đầu nuôi cá hồi nhưng không hiệu quả do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, thời tiết cũng khắc nghiệt hơn, nước suối không còn đủ lạnh, cá hồi chết dần. Ông Đoàn và nhiều hộ nuôi khác ở bản Chu Va 12 buộc phải chuyển sang nuôi cá tầm.
Trại cá tầm của gia đình ông Đỗ Chí Đoàn hiện nuôi khoảng hơn 4 vạn con cá giống và cá thương phẩm. Ảnh: Tú Thành.
Ông Đỗ Chí Đoàn chia sẻ: “Con cá tầm dễ hơn cá hồi, nhưng cũng đỏng đảnh lắm. Nó thích sạch, mà nước bây giờ thì ô nhiễm nhiều. Lúc đầu tôi cũng chẳng biết, cứ thấy cá chết thì lại mò tìm nguyên nhân. Hết bệnh gan, đến bệnh nấm. Có bể chết hết, có bể lại sống. Mỗi lần như thế, là một lần học phí”.
Thế nhưng, với ý chí của người con vùng cao không cam chịu đói nghèo, bao nhiêu lần thất bại cũng là bấy nhiêu lần ông vực dậy. Ban đầu, ông lặn lội đi khắp nơi tìm hiểu mô hình, mời chuyên gia về tận bản hướng dẫn kỹ thuật nuôi cá nước lạnh. Dần dần, “vua cá tầm” tích lũy kiến thức, thuần thục cách thuần dưỡng loài cá quý vốn có xuất xứ từ xứ lạnh.
Trời không phụ lòng người, sau hơn một thập kỷ, trang trại của ông Đoàn đã mở rộng đáng kể, từ 5 bể ban đầu, nay đã có 24 bể lớn và 18 bể nhỏ, thả nuôi khoảng 40.000 - 45.000 con, chủ yếu là cá giống.
Khu trang trại trải rộng, nước suối đầu nguồn dẫn về trong vắt, cung cấp cho hệ thống bể nuôi tuần hoàn khép kín. Nhờ môi trường nước mát lạnh, đàn cá tầm của ông Đoàn sinh trưởng khỏe mạnh, chất lượng thịt thơm ngon.
Nhờ đó, trại cá nước lạnh của ông Đỗ Chí Đoàn tạo việc làm cho nhiều lao động địa phương. “Giờ thì thu nhập đã ổn định. Gia đình tôi còn tạo việc làm cho 3 lao động thường xuyên tại địa phương, giúp bà con có thu nhập mỗi tháng từ 7 - 10 triệu đồng và được nuôi ăn thêm bữa trưa. Ngoài ra, những đợt cao điểm, nhiều việc, cũng thuê thêm các lao động thời vụ trả công theo ngày hoặc theo tuần”, ông mỉm cười chia sẻ thành quả.
Mô hình nuôi cá nước lạnh tạo việc làm ổn định cho nhiều lao động địa phương. Ảnh: Tú Thành.
Nghề nuôi cá nước lạnh đã thật sự trở thành “chìa khóa” thoát nghèo cho nhiều hộ dân ở đây cũng như các địa phương lân cận. Hiện nay, riêng xã Bình Lư đã trở thành điểm sáng trong nuôi cá nước lạnh ở Lai Châu với hàng trăm bể nuôi tập trung. Từ đó tạo nguồn thu đáng kể, góp phần nâng cao thu nhập và tạo việc làm ổn định cho lao động nông thôn trên miền sơn cước.
Những trăn trở của “vua cá tầm”
Dẫu phát triển mạnh thời gian qua và mở ra một hướng đi mới cho người dân vùng cao, nhưng phía sau bức tranh tươi sáng ấy, nghề nuôi cá nước lạnh ở Lai Châu vẫn đối mặt với không ít khó khăn.
Trước hết là rủi ro thiên tai, biến đổi khí hậu. Không ít hộ nuôi chịu thiệt hại nặng nề do mưa lũ, sạt lở và nguồn nước thay đổi bất thường.
Bên cạnh đó, giá cả thị trường thiếu ổn định cũng là nguyên nhân khiến người nuôi gặp nhiều áp lực. Từ cuối năm 2024, giá cá tầm giảm sâu, chỉ còn khoảng hơn 100.000 đồng/kg, thấp hơn nhiều so với mức bình quân 170.000 - 180.000 đồng/kg trước đây. Trong khi chi phí đầu vào, đặc biệt là thức ăn và con giống, lại tăng cao.
Trại nuôi cá tầm dưới chân đèo Ô Quy Hồ của gia đình ông Đỗ Chí Đoàn, tận dụng nguồn nước lạnh tự nhiên, trở thành mô hình kinh tế hiệu quả ở vùng cao. Ảnh: Tú Thành.
Ông Đỗ Chí Đoàn cho rằng, việc cá tầm nhập lậu từ Trung Quốc tràn vào thị trường với giá rẻ đã khiến sản phẩm trong nước khó cạnh tranh.
Theo ông Đoàn, để nghề nuôi cá nước lạnh phát triển bền vững, cần sớm có giải pháp kiểm soát nguồn nhập khẩu, xây dựng hàng rào kỹ thuật và có phương án chủ động sản xuất con giống nội địa.
“Nếu kiểm soát tốt thị trường, đảm bảo đầu ra ổn định, nghề cá tầm hoàn toàn có thể trở thành sinh kế lâu dài, giúp người dân nâng cao thu nhập, góp phần phát triển kinh tế nông thôn miền núi,” ông đề xuất.
Thực tế cho thấy, nghề nuôi cá nước lạnh ở xã Bình Lư và nhiều địa phương khác của Lai Châu đã góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tạo việc làm và cải thiện đời sống cho người dân. Những khu vực nuôi cá tầm tận dụng nguồn nước tự nhiên mát lạnh, mở ra hướng sản xuất hàng hóa quy mô nhỏ phù hợp với điều kiện địa phương.
Tuy nhiên, để nghề nuôi cá nước lạnh phát triển bền vững, cần sự đồng hành chặt chẽ giữa chính quyền và người dân. Bên cạnh việc quy hoạch vùng nuôi, tổ chức sản xuất, đào tạo kỹ thuật, cần chú trọng xây dựng thương hiệu, truy xuất nguồn gốc và mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước. Việc tạo cơ chế tín dụng ưu đãi và hạ tầng cấp nước ổn định cũng là yếu tố then chốt để người nuôi yên tâm đầu tư lâu dài.