Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam đang được đề xuất đầu tư với công năng vừa chở khách kết hợp chở hàng hóa, tốc độ thiết kế 350 km/h, tải trọng trục 22,5 tấn - Ảnh: internet
Theo chương trình kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, trong tuần làm việc thứ 4 (từ ngày 11 - 16/11/2024) diễn ra nhiều nội dung quan trọng, trong đó nổi bật là hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn. Quốc hội cũng thảo luận về: Chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam; Điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành tại Nghị quyết số 94/2015/QH13 của Quốc hội…
Về Dự án đường sắt tốc độ cao (ĐSTĐC) trên trục Bắc – Nam, trong tuần làm việc trước, sau giờ họp Quốc hội ngày 6/11, chiều tối cùng ngày, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nghe báo cáo tờ trình của Chính phủ và thống nhất trình Quốc hội xem xét chủ trương đầu tư Dự án ĐSTĐC trục Bắc - Nam tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV.
Trước đó, ngày 18/10/2024, Báo cáo thẩm định Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án do Bộ GTVT trình đã được Hội đồng thẩm định nhà nước về dự án trên thẩm định, đồng ý thông qua (đạt trên 2/3 thành viên) và thống nhất kiến nghị Chính phủ xem xét, thông qua.
Đánh giá lại quá trình nghiên cứu dự án, nội dung Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án ĐSTĐC trên trục Bắc - Nam lần này đề cập lý do chủ trương đầu tư dự án chưa được Quốc hội thông qua vào năm 2010 do còn có ý kiến băn khoăn về tốc độ, phương án khai thác, nguồn lực đầu tư trong bối cảnh quy mô nền kinh tế tại thời điểm năm 2010 thấp (GDP là 147 tỷ USD). Mặt khác, tại thời điểm đó, tổng mức đầu dự án khoảng 55,8 tỷ USD (tương đương 38% GDP), nợ công ở mức cao (56,6% GDP).
Từ đó đến nay, dự án tiếp tục được Bộ GTVT nghiên cứu kỹ lưỡng, khoa học để đưa ra kết luận, đề xuất phê duyệt chủ trương đầu tư. Trong đó, nhận định rằng với quy mô nền kinh tế năm 2027 ước đạt 564 tỷ USD thì nguồn lực đầu tư dự án không còn là trở ngại lớn. Tuy nhiên, đáng chú ý, Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án lần này đề xuất một số nội dung mới, thay đổi căn bản so với báo cáo năm 2019 nhằm cập nhật và phù hợp với tình hình thực tế.
Cụ thể, theo Hội đồng thẩm định nhà nước Dự án ĐSTĐC trên trục Bắc – Nam, so với hồ sơ Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án được Bộ GTVT trình Hội đồng thẩm định nhà nước năm 2019, hồ sơ lần này có sự thay đổi về: Kết quả dự báo nhu cầu vận tải (tăng nhu cầu vận tải hành khách); Phương thức vận tải (chuyển từ vận tải hành khách sang vừa vận tải khách vừa chở hàng hóa); Tải trọng trục (nâng từ 17 tấn/trục thành 22,5 tấn/trục); Tổng mức đầu tư (từ 58,71 tỷ USD thành 67,34 tỷ USD); Thay đổi mô hình quản lý vận hành khai thác; Phương thức đầu tư (chuyển từ đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) sang đầu tư công); Tiến độ đầu tư (rút ngắn 10 năm); Bổ sung các cơ chế đặc biệt để triển khai dự án…
Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam được đề xuất khởi công năm 2027, phấn đấu hoàn thành năm 2035 - Ảnh: internet
Về đề xuất phê duyệt chủ trương đầu tư, theo Tờ trình được Chính phủ trình Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án ĐSTĐC trên trục Bắc - Nam, tuyến ĐSTĐC bắt đầu tại Hà Nội (ga Ngọc Hồi) và kết thúc tại TP. Hồ Chí Minh (ga Thủ Thiêm), đi qua địa phận 20 tỉnh, thành phố; chiều dài tuyến khoảng 1.541 km. Tuyến đi qua địa phận 20 tỉnh, thành phố gồm: Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai và TP. Hồ Chí Minh.
Tuyến đường sắt được xây dựng mới tuyến đường sắt đôi, khổ 1.435 mm, điện khí hóa, tốc độ thiết kế 350 km/h, tải trọng 22,5 tấn/trục; trên tuyến có 23 ga hành khách và 5 ga hàng hóa; vận chuyển hành khách, có thể vận tải hàng hóa khi cần thiết để đáp ứng yêu cầu lưỡng dụng phục vụ quốc phòng, an ninh. Sơ bộ tổng mức đầu tư dự án khoảng 1.713.548 tỷ đồng (khoảng 67,34 tỷ USD).
Về tiến độ thực hiện dự án, hoàn thành công tác lập và phê duyệt Báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế năm 2025-2026; triển khai giải phóng mặt bằng, khởi công dự án năm 2027; phấn đấu cơ bản hoàn thành toàn tuyến năm 2035.
Về nguồn vốn và khả năng cân đối vốn, dự kiến nguồn vốn ngân sách nhà nước bố trí trong các kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn để đầu tư hoàn thành dự án vào năm 2035, bố trí vốn trong khoảng 12 năm, bình quân mỗi năm khoảng 5,6 tỷ USD, tương đương: Khoảng 16,2% kế hoạch đầu tư trung hạn giai đoạn 2026 - 2030 nếu giữ nguyên tỷ lệ đầu tư công trung hạn chiếm 5,5 -5,7% GDP như hiện nay; bằng khoảng 1,3% GDP năm 2023, khoảng 1,0% GDP năm 2027 (khởi công dự án). Quá trình triển khai sẽ huy động đa dạng các nguồn vốn hợp pháp để đầu tư.
Về quản lý khai thác, đề xuất Tổng công ty Đường sắt VN là đơn vị tiếp nhận quản lý, bảo trì kết cấu hạ tầng và tổ chức vận hành khai thác toàn tuyến; được giao toàn bộ phương tiện, thiết bị theo phương án không tính thành phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp để quản lý, khai thác. Tổng công ty Đường sắt VN sử dụng số tiền thu được từ khai thác phương tiện, thiết bị để trả nợ vốn vay, vốn huy động (nếu có), thực hiện nghĩa vụ tài chính với nhà nước theo quy định của pháp luật, phần còn lại được nộp toàn bộ vào ngân sách nhà nước để hoàn trả chi phí đầu tư (các hạng mục: phương tiện, thiết bị, đào tạo nguồn nhân lực (6,56 tỷ USD vào năm 2036), không bao gồm chi phí mua sắm bổ sung phương tiện trong quá trình khai thác).
Để đáp ứng yêu cầu nêu trên, Chính phủ giao Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp tái cơ cấu Tổng công ty Đường sắt VN, xây dựng mô hình quản lý, bảo trì kết cấu hạ tầng; vận hành, khai thác ĐSTĐC nói riêng và hệ thống đường sắt quốc gia nói chung bảo đảm thống nhất, hiện đại, hiệu quả; tham gia phát triển công nghiệp đường sắt...