Ban biên tập Tạp chí Khám phá điện tử
Thuở nhỏ tôi đã từng học ở chái nhà thầy, ở đình làng, ở các lán, ở dưới hầm. Có dạo lại còn phải học ban đêm trong hầm. Những cái hầm chữ A khổng lồ, cứ mưa là ngập nước, chúng tôi ngồi trên những cái ghế ghép bằng 2 cây luồng (bàn thì ghép 3 cây) thả chân xuống nước khua khoắng. Hồi nào máy bay ném bom nhiều quá thì học ban đêm, mỗi đứa đi học xách theo một cây đèn hoa kỳ đặt trong những khúc ống luồng được trổ một cái lỗ để ánh sáng lọt ra phía ấy. Trên bảng là một cây đèn bão treo trên góc. Mỗi khi viết thì xoay cái phía ánh sáng đèn dầu về cuốn vở, còn xem trên bảng thì đồng loạt xoay ánh sáng về phía ấy. Những cây đèn con con hướng về bảng phụ họa với ánh sáng cây đèn bão giúp chúng tôi lờ mờ thấy những gì cô viết trên bảng, thế mà cấm đứa nào cận thị...
Dù đã trải qua những ngày học, lớp học kinh hoàng thế nhưng đến giờ, cái dấu ấn lớp học ở Đăck Glei mà tôi chỉ gặp một lần trong đời vẫn ám ảnh tôi, nó khiến tôi mỗi lần nghĩ đến giáo dục vùng sâu vùng xa là lập tức nghĩ đến, rồi lấy nó làm điểm để so sánh, liên tưởng và xót xa...
Đây là bức ảnh tôi chụp cách đây 8 năm, ở một ngôi trường sát biên giới Campuchia thuộc huyện Ia Grai, Gia Lai, phòng ở của các cháu học sinh nội trú...
Dạo ấy tôi mới lên nhận công tác ở tỉnh Gia Lai – Kon Tum. Tôi nhớ ông phó phòng kêu tôi lên căn dặn nguyên một buổi chiều, rằng là không được đi ra cách trụ sở làm việc 2km. Ban đêm 8 giờ phải tắt đèn đi ngủ dù cơ quan tôi ở ngay trung tâm thị xã Pleiku. 2 tháng sau thì tôi có cuộc đi công tác đầu tiên, là lên huyện Đăck Glei. Lúc ấy là đầu năm dương lịch 1982.
Từ Pleiku lên Đăck Glei tiếng là trong một tỉnh, hồi ấy chưa chia tỉnh, nhưng phải đi xe Zin 3 cầu mà mất đúng 2 ngày. Chúng tôi đi thành đoàn 7, 8 người và trong đoàn có người có súng. Xong việc thì một anh có máu văn chương, nguyên là lính của đồn biên phòng Đăck Glei rủ tôi... tách đoàn vào đồn biên phòng cũ của anh chơi. Trẻ, hăng và đầy tò mò, tôi hăm hở nhận lời.
Té ra nó xa và hiểm trở kinh khủng. Giờ thì có khi chỉ tiếng đồng hồ xe chạy là đến nơi, nhưng hồi ấy chúng tôi đi bộ. Hai gã trai lếch thếch cứ xuyên rừng già mà đi. Gần đến đỉnh này lại gặp đỉnh khác, có những đoạn anh bạn kia phải đi trước cầm 1 đầu sợi dây rừng để tôi bám phía sau men theo con đường cheo leo trên miệng vực, bên này là vách núi, con đường mòn chỉ đặt được một bàn chân, bên kia là hun hút miệng vực. Chừng 3 tiếng đồng hồ thì hiện ra một thung lũng. Anh bạn đi cùng hú ầm lên. Dưới thung lũng thấy 2 bóng áo trắng con gái chạy ra vẫy tay và cũng hú loạn xạ. Giờ mới nhìn rõ, có một cái nhà tranh kiểu lán ẩn dưới tán cây rừng.
Thì ra nó là một cái trường. Trường của xã hẳn hoi chứ không phải điểm trường như sau này. Trường có 4 lớp học từ lớp 1 đến lớp 4, và chỉ có 2 cô giáo dạy. Đến giờ quả thật là tôi đã không còn nhớ tên các cô nữa, cuốn sổ ghi chép thời ấy đã mục nát từ hồi nào, chỉ nhớ một cô quê Nam Hà, một cô quê Nghệ An. Các lớp học mà tôi đã trải qua trên kia, nó gì thì gì, còn có dân ở bên cạnh, khi vắng học trò còn có dân. Đằng này, lớp chơ vơ giữa thung lũng, làng gần nhất đi bằng chân học trò cũng mất 2 tiếng, còn chân các cô thì 3, 4 tiếng. Hỏi kỹ thì biết, là không làng nào chịu làng nào nên trường của xã nhưng không đặt được ở xã, cũng không đặt được ở làng nào, mà phải chia khoảng cách bằng nhau giữa các làng. Người Tây Nguyên là vậy, cái gì cũng phải công bằng. Vậy nên có thời người ta bỏ tiền tấn ra làm các nhà rông văn hóa cho dân, đặt ở trung tâm xã, kết quả là chỉ giải quyết khâu... oai chứ chả có người dân nào lên sử dụng. Họ chỉ lên khi đấy là của làng họ. Vậy nên ở cái trường tôi đang kể ấy, thường thì 9 giờ mới vào học, đến 11 giờ thì xong ca thứ nhất, ca chiều học từ 1 giờ đến 3 giờ thì để trò về nhà cho kịp trời tối, nhất là mùa mưa. Thời gian còn lại là của... 2 cô giáo ấy. Dằng dặc cô đơn nên có thể hiểu sự mừng vui tột độ khi các cô gặp... người. Tất cả mọi thứ đều phải ra huyện lĩnh, từ lương cho đến nhu yếu phẩm các loại. Mà chủ nhật thì huyện lại nghỉ. Vậy nên có ngày chỉ còn có 1 cô ở trường, cô kia phải ra huyện. May mà còn có các anh bộ đội biên phòng thi thoảng qua lại, và đấy là lý do anh bạn đi cùng nguyên là bộ đội của đồn hú ầm lên khi thấy trường và các cô cũng vừa hú vừa vẫy loạn xạ.
Trưa ấy, các cô đãi cơm chúng tôi. Cơm thì tất nhiên rồi, thức ăn là rau cải luộc chấm nước muối. Có mấy con cá chuồn khô kho muối. Nhưng các cô vui lắm, cứ tíu ta tíu tít, còn nằn nì chúng tôi... ngủ lại. Cái trường ấy có 3 gian, 2 gian là 2 phòng học cho 4 lớp, gian còn lại là chỗ ngủ cho... 3 thầy cô. Thì ra ở đây còn 1 thầy nữa, nhưng thầy phải vào dạy tận điểm trường trên đỉnh Ngok Linh cao vút quanh năm mờ sương, lâu lâu thầy mới quay lại trường, mỗi lần đi cả ngày, lúc ấy thì 2 cô ngủ ghép 1 giường, thầy 1 giường. Các cô rất thật lòng, mời 2 anh ngủ lại, 2 anh một giường, 2 em một giường, để nói chuyện cho vui, cho có tiếng người. Sinh viên mới ra trường, trai tân, nhưng quả là, thề có đèn giời, lúc ấy tôi hoàn toàn không nghĩ gì, dẫu chỉ là thoáng qua, cái ý đen tối khi 2 gã trai ngủ lại ở một cái phòng tranh tre nứa lá giữa rừng già Ngok Linh trắng sương lạnh buốt kia với 2 cô gái, chỉ thấy ái ngại và thương các cô. Nhưng anh bạn đã hẹn với đồn là tối ấy tôi sẽ nói chuyện với cán bộ chiến sĩ của đồn (thay vì họ phải sinh hoạt gì đấy thì tôi vừa liều mạng vừa bị đặt vào thế đã rồi, đăng đàn nói chuyện cho bộ đội, về Nguyễn Du, tôi nhớ thế). Vì thế mà chúng tôi cương quyết rũ áo khước từ, hẹn hôm sau quay lại sẽ ghé. Hôm sau quay ra, trên đường đi tôi phát hiện hôm nay đúng là ngày 20/11, bèn hái một bó hoa rừng ôm theo. Cả 2 cô thấy chúng tôi xuất hiện với bó hoa trên tay đã òa khóc. Lại ăn cơm, lại rau cải luộc chấm nước muối và cá chuồn khô, lại mời ngủ lại, nhưng chúng tôi vẫn phải ra huyện cho kịp để sáng hôm sau theo xe Zin 3 cầu về Pleiku, chứ nếu không phải ở lại Đăck Glei cả tuần sau mới có xe.
Rồi tôi đã không bao giờ trở lại ngôi trường ấy nữa, đồng nghĩa với việc mù tịt thông tin về 2 cô giáo, dù vẫn luôn ám ảnh cái ánh mắt của các cô khi mời chúng tôi ngủ lại, cái tiếng hú mà trước đó tôi được dạy là chỉ người tiền sử mới dùng vì họ chưa có tiếng nói, cái động tác vẫy tay rối rít khi chúng tôi xuất hiện từ trên đỉnh núi mờ sương, và dáng thẫn thờ khi chúng tôi quay lưng trước khi lẫn vào rừng để ra lại thị trấn...
Những năm 80 của thế kỷ trước, những trường học như thế, lớp học như thế, những cô giáo như thế, không phải là cá biệt...
Nguồn tin: hatinhnews.com
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn