"Không ngờ một người đàn bà lại thông tuệ đến thế!"
Bà Nguyễn Thị Bích Châu, quê ở xã Bảo Lộc, huyện Hải Hậu, Nam Định. Cha là một vị quan đời Trần, mẹ họ Phạm (đều không rõ tên, tuổi). Bà đẹp người, đẹp nết lại thông thạo sách vở, văn từ, được vua Trần tuyển vào cung, phong bà là Quý phi, đặt tên hiệu là Phù Dung.
Thấy chính sự đất nước rối ren, vua tôi tranh nhau quyền lực, thấy rõ sự khủng hoảng của nhà Trần đã đến thời kỳ mạt vận, bà Bích Châu đã mượn chữ "Kê minh" để dóng lên một tiếng gà báo sáng. Báo sáng là thức tỉnh, để tránh sự u muội, tối tăm. Kê Minh thập sách của Nguyễn Thị Bích Châu ngắn gọn, súc tích, bao quát hầu khắp các vấn đề quốc gia đại sự.
1 - "Bền gốc nước trị kẻ bạo tàn cho lòng dân được yên.
2 - Giữ đúng quy định, xoá bỏ phiền nhiễu thì triều cương không rối.
3 - Trị kẻ lạm quyền tránh hoạ ngầm cho nước.
4 - Đuổi hết bọn tham nhũng cho dân đủ sống.
5 - Chấn chỉnh học hành, lễ nghĩa cho sáng tỏ đất trời.
6 - Mong nghe được lời nói thẳng, mở rộng cửa ngôn luận như mở rộng cửa thành.
7 - Chọn quân thì nhằm vào dũng lực, không nhằm vào vóc dạng cao lớn.
8 - Chọn tướng thì nhằm vào tài thao lược không nhằm vào thế gia
9 - Vũ khí cần sắc bén không cần trang trí sặc sỡ.
10 - Tập trận thì cần chỉnh tề, chặt chẽ chứ không phải giở trò múa may cho đẹp mắt.
Xét mấy điều ấy rất thiết thực. Dám dâng lên tấm lòng trung thực, mong nhận cho lời nói quê mùa. Bỏ điều dở mà làm điều hay, xin bệ hạ lượng nghĩ. Nước được trị, dân được yên, thiếp mong lắm vậy!".
Khi bài viết được dâng lên, Trần Duệ Tông đã phải thốt lên: "Không ngờ một người đàn bà lại thông tuệ đến thế! Thật là một Từ phi (vợ Đường Thái Tông) ở trong cung của Trẫm vậy!".
Bà Nguyễn Thị Bích Châu, quê ở xã Bảo Lộc, huyện Hải Hậu, Nam Định. Cha là một vị quan đời Trần, mẹ họ Phạm (đều không rõ tên, tuổi). Bà đẹp người, đẹp nết lại thông thạo sách vở, văn từ, được vua Trần tuyển vào cung, phong bà là Quý phi, đặt tên hiệu là Phù Dung.
Thấy chính sự đất nước rối ren, vua tôi tranh nhau quyền lực, thấy rõ sự khủng hoảng của nhà Trần đã đến thời kỳ mạt vận, bà Bích Châu đã mượn chữ "Kê minh" để dóng lên một tiếng gà báo sáng. Báo sáng là thức tỉnh, để tránh sự u muội, tối tăm. Kê Minh thập sách của Nguyễn Thị Bích Châu ngắn gọn, súc tích, bao quát hầu khắp các vấn đề quốc gia đại sự.
1 - "Bền gốc nước trị kẻ bạo tàn cho lòng dân được yên.
2 - Giữ đúng quy định, xoá bỏ phiền nhiễu thì triều cương không rối.
3 - Trị kẻ lạm quyền tránh hoạ ngầm cho nước.
4 - Đuổi hết bọn tham nhũng cho dân đủ sống.
5 - Chấn chỉnh học hành, lễ nghĩa cho sáng tỏ đất trời.
6 - Mong nghe được lời nói thẳng, mở rộng cửa ngôn luận như mở rộng cửa thành.
7 - Chọn quân thì nhằm vào dũng lực, không nhằm vào vóc dạng cao lớn.
8 - Chọn tướng thì nhằm vào tài thao lược không nhằm vào thế gia
9 - Vũ khí cần sắc bén không cần trang trí sặc sỡ.
10 - Tập trận thì cần chỉnh tề, chặt chẽ chứ không phải giở trò múa may cho đẹp mắt.
Xét mấy điều ấy rất thiết thực. Dám dâng lên tấm lòng trung thực, mong nhận cho lời nói quê mùa. Bỏ điều dở mà làm điều hay, xin bệ hạ lượng nghĩ. Nước được trị, dân được yên, thiếp mong lắm vậy!".
Khi bài viết được dâng lên, Trần Duệ Tông đã phải thốt lên: "Không ngờ một người đàn bà lại thông tuệ đến thế! Thật là một Từ phi (vợ Đường Thái Tông) ở trong cung của Trẫm vậy!".
Đền thờ bà Nguyễn Thị Bích Châu tại Kỳ Anh, Hà Tĩnh. |
Chết nơi trận mạc
Nhưng rồi Vua vẫn không sửa chính sự theo lời khuyên của Nguyễn Thị Bích Châu. Hơn thế, Trần Duệ Tông còn đem quân đi đánh Chiêm Thành. Nhiều người khuyên can, song vua vẫn không nghe.
Nguyễn Thị Bích Châu lại làm một bài biểu dâng lên. Bà viết: "Thiếp trộm nghĩ, rợ Hiếm Doãn ngang tàng quá lắm, từ trước quen thân, rợ Hung Nô kiệt hiệt gớm ghê, đến nay càng tệ. Vì cướp bóc là cái thói thường của man di mà dùng binh không phải bản tâm của vương giả. Nhỏ xíu kia Chiêm Thành, ở mé nơi hải đảo.
Năm xưa kéo quân vào Nhị Thủy, nhòm thấy nước ta bất hoà, khi ấy tiếng trống động ngoài biển chỉ vì lòng dân chưa yên. Cho nên chúng dám tung đàn ruồi nhặng múa ngoài bãi cỏ, có khác nào giơ càng bọ ngựa ngăn bánh xe. Nhưng thánh nhân rộng lượng bao dung, không thèm cùng với chó dê so sánh. Việc trị đạo trước gốc, sau ngọn, xin nghỉ binh cho dân chúng an nhàn, trị cái rắn nên dùng cái mềm, phục rợ xa cốt lấy đức. Vua đời Ngu Thuấn chỉ múa nhạc mà giặc Hữu Miêu đến hàng. Vua nhà Hạ Vũ chỉ gẩy đàn, chẵn một tháng rợ Hồ quy phục. Đó là thượng sách, xin xét đoán cho minh".
Bài biểu dâng lên Vua vẫn không chịu nghe, bà buồn rầu nói: "Nghĩa là vua tôi, ơn là vợ chồng, đã không giỏi can ngăn để giữ nền bình trị, lại không biết khéo lời để ngăn lòng hiếu chiến, thật là sống thừa trong cõi trời đất vậy".
Đến lúc Trần Duệ Tông duyệt binh chinh phạt Chiêm Thành, bà xin vua đi theo quân đội và đã hy sinh nơi trận mạc. Về cái chết của Bích Châu, trong dân gian còn truyền tụng câu chuyện, khi đội quân của vua Trần Duệ Tông đi đến biển Kỳ Sơn (Kỳ Anh, Hà Tĩnh) bỗng nhiên biển nối sóng to gió lớn, thần biển hiện lên đòi nhà vua phải gả cho một cung phi làm vợ.
Bài biểu dâng lên Vua vẫn không chịu nghe, bà buồn rầu nói: "Nghĩa là vua tôi, ơn là vợ chồng, đã không giỏi can ngăn để giữ nền bình trị, lại không biết khéo lời để ngăn lòng hiếu chiến, thật là sống thừa trong cõi trời đất vậy".
Đến lúc Trần Duệ Tông duyệt binh chinh phạt Chiêm Thành, bà xin vua đi theo quân đội và đã hy sinh nơi trận mạc. Về cái chết của Bích Châu, trong dân gian còn truyền tụng câu chuyện, khi đội quân của vua Trần Duệ Tông đi đến biển Kỳ Sơn (Kỳ Anh, Hà Tĩnh) bỗng nhiên biển nối sóng to gió lớn, thần biển hiện lên đòi nhà vua phải gả cho một cung phi làm vợ.
Nhà vua chưa biết tính sao, bà Bích Châu liền xin được hy sinh cho thần biển và khuyên vua: "Sau khi thần thiếp chết, xin bệ hạ sửa văn, nghỉ võ, tìm dùng người hiền, làm điều nhân nghĩa nghĩ chước lâu dài cho nước nhà". Nói xong bà liền nhảy xuống biển, bỗng nhiên trời yên biển lặng. Nhà vua liền cho quân tiến sâu vào động Ỷ Mang, đất Chiêm Thành, trúng mưu của Bà Ma, quân tan, vua chết trận.
Trải qua các triều đại phong kiến bà được tôn là Chế Thắng phu nhân và có nhiều sắc phong. Nhân dân tôn bà là Loan Nương Thánh mẫu.
Trải qua các triều đại phong kiến bà được tôn là Chế Thắng phu nhân và có nhiều sắc phong. Nhân dân tôn bà là Loan Nương Thánh mẫu.
Theo Kienthuc.net.vn