TÁC ĐỘNG CỦA MẠNG XÃ HỘI ĐẾN DƯ LUẬN XÃ HỘI
Mỗi sáng thức dậy, thay vì bật tivi, mở đài, cầm tờ báo và vào các trang báo mạng điện tử để xem tin tức, rất nhiều người lại bắt đầu bằng những dòng thông tin rất ngắn trên các trang mạng xã hội. Nếu như trước đây, tâm trạng xã hội được đo lường qua kênh báo chí là chủ yếu thì nay mạng xã hội đang dần chiếm lĩnh, khẳng định vị trí này. Điều này đã tạo ra sự chuyển biến lớn trong cách sử dụng các phương tiện truyền thông hiện nay của công chúng, ảnh hưởng rất lớn đến lưu lượng, giá trị thông tin được truyền tải. Thực tế cũng cho thấy, trong nhiều trường hợp, mạng xã hội có tác động rất lớn trong việc tạo dựng, định hướng và dẫn dắt dư luận xã hội, đặc biệt tại một số thời điểm nhạy cảm, trong một số vụ việc mất an ninh trật tự. Một thực tế dễ nhận thấy là trên các mạng xã hội đang tồn tại rất nhiều những hội cuồng tín, phản động, tội phạm… sử dụng mạng xã hội để phục vụ cho mục đích xấu xa: có thể là bôi xấu hình ảnh của cá nhân, tổ chức nào đó hoặc lợi dụng để can thiệp công việc nội bộ các nước khác.
Trên mạng xã hội, người ta thoải mái chê bai, thậm chí là xỉ nhục danh dự cá nhân, tổ chức mà không chịu sự kiểm soát hoặc phán xét của bất kỳ ai. Nhiều cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp… trở thành nạn nhân của những dụng tâm ác ý, có chủ đích. Chỉ trong tích tắc, danh dự, nhân phẩm, thương hiệu của cá nhân, tập thể bị phá hoại mà không cách nào khắc phục. Khá nhiều vụ tự tử xảy ra do bị lừa đảo hoặc lôi kéo trên mạng. Những trào lưu sống không lành mạnh cũng từ đó mà lây lan rất nhanh. Trong khi đó, các thông tin cá nhân cũng dễ dàng bị công bố mà không cần quan tâm tới bản quyền hay ý kiến của chủ nhân. Việc bị ăn cắp thông tin cá nhân là mối nguy hiểm thực sự qua hình thức phát tán thông tin không hạn chế trên mạng xã hội.
Có một tâm lý chung của những người dùng mạng xã hội là thích hướng về những thông tin nóng, mới hơn là xem nguồn gốc chúng đến từ đâu, có chính xác hay không. Sự thật là có rất nhiều các tin đồn nhảm xuất hiện từ các trang web không đáng tin cậy nhưng chẳng làm cho cư dân mạng để ý. Các mạng xã hội dường như cũng không quan tâm đến điều này. Vì vậy, nhiều người lo lắng rằng những giá trị cốt lõi của truyền thông đang đứng trước nguy cơ mất dần. Cả thế giới giờ đây đã bắt đầu cảm nhận được những sự nguy hiểm từ sự quá tự do trên mạng xã hội và đang cùng nhau tìm cách khắc phục.
Nhào dzô- tác phẩm đoạt giải Khuyến khích Biếm họa Báo chí Việt Nam lần V–2018 |
CẦN NHỮNG GIẢI PHÁP CHO THỂ CHẾ “MỀM”
Thực tiễn cho thấy, việc ban hành các văn bản pháp lý, các quy định về quản lý nhà nước, cho dù có nghiêm ngặt đến đâu, cũng không thể loại trừ hoàn toàn những thông tin xấu, độc trên mạng xã hội. Mặt trái của mạng xã hội luôn tồn tại và không thể xóa bỏ mà chỉ có thể hạn chế nó. Vì thế, bên cạnh những quy định của pháp luật, cần phải có một khuôn khổ thể chế “mềm”, để bổ sung cho các khung pháp lý chính thức của Nhà nước.
Việc Bộ Thông tin và Truyền thông xây dựng Dự thảo “Bộ quy tắc ứng xử cho các nhà cung cấp dịch vụ và người sử dụng mạng xã hội, hướng tới xây dựng môi trường mạng lành mạnh, an toàn tại Việt Nam”, với nội dung cốt lõi là những chuẩn mực đạo đức về hành vi, ứng xử trên mạng xã hội là rất cần thiết với tình hình hiện nay. Tuy nhiên, làm thế nào để Bộ quy tắc tăng tính hiệu quả, phát huy tính khả thi, nghĩa là đi vào cuộc sống, để không bị lãng quên như không ít bộ quy tắc khác lại là điều không đơn giản.
Trên cơ sở góc nhìn của lĩnh vực truyền thông, xin đề xuất một số giải pháp sau: Một là, nâng cao nhận thức của người dân về mạng xã hội nói chung, Bộ quy tắc nói riêng. Thay vì làm một cách dàn trải, trước hết hãy tác động nhằm thay đổi, nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong các tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp… và từ họ sẽ lan sang người thân, bạn bè… Bởi đây là những người có trình độ nhận thức tương đối cao trong xã hội, lại gắn bó và chịu sự ràng buộc của một tập thể, tổ chức nhất định, nên việc đo lường sự thay đổi, biến chuyển cũng dễ dàng hơn.
Nhưng nếu thay đổi nhận thức, cách ứng xử trên mạng của cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên trong các cơ quan, doanh nghiệp thì mới chỉ thay đổi phần ngọn. Do đó, cần có chiến lược đưa Bộ quy tắc vào nhà trường, giáo dục kỹ năng ứng xử, cách thức sử dụng mạng xã hội cho học sinh ngay từ cấp tiểu học, hoặc muộn là cấp cơ sở. Hai là, tăng cường truyền thông, phổ biến Bộ quy tắc. Ngoài việc sử dụng tổng lực các phương tiện truyền thông như báo chí, mạng xã hội thì sự chung tay, góp sức của các bộ, ban, ngành trong việc đưa Bộ quy tắc vào các cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường… là hết sức cần thiết. Thêm vào đó, nếu có sự phối hợp giữa cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng, đặc biệt là đơn vị cung cấp dịch vụ mạng xã hội - đơn vị chịu trách nhiệm cung cấp dịch vụ nền tảng - trong việc truyền thông, nâng cao nhận thức của người sử dụng mạng xã hội thì sẽ mang lại hiệu quả cao. Theo đó, cách thức truyền thông phải bài bản, dài hơi, bằng nhiều kênh, tránh khô cứng và phải gắn với những tình huống sinh động trong thực tiễn.
Trong công tác tuyên truyền, lấy đội ngũ làm công tác báo chí và truyền thông làm đối tượng tác động trọng tâm, có ý nghĩa then chốt. Bởi nếu đội ngũ này có những ứng xử đúng, có văn hoá thì sẽ là “cánh chim báo bão” lan toả hành động rất nhanh, ngược lại sẽ có tác động rất xấu đến dư luận, xã hội. Đồng thời, cần phải có công tác truyền thông mang tính đột phá để chính mỗi nhà báo phải nhận thức được rằng, khi tham gia mạng xã hội, dù cho họ không mang danh nghĩa cơ quan, toà soạn nhưng góc nhìn của họ vẫn là của một nhà báo; công chúng vẫn nhìn họ với tư cách là một nhà báo nên độ lan toả và hậu quả tác động sẽ cao gấp nhiều lần người khác.
Không ít nhà báo thể hiện quan điểm của mình trên báo chí và trên mạng xã hội là khác nhau, thậm chí là đối lập nhau. Hiện tượng “nhà báo hai mặt”, phát ngôn trên mạng xã hội không chuẩn mực, thậm chí nói sai quan điểm của Đảng, trái với Hiến pháp đang ngày càng có chiều hướng nghiêm trọng hơn.
Ba là, khuyến khích các cơ quan báo chí, các tổ chức, doanh nghiệp, trường học… xây dựng bộ quy tắc ứng xử trên mạng xã hội riêng dựa vào điều kiện, đặc điểm của mình; hoặc đưa nguyên tắc ứng xử trên mạng xã hội vào quy định nội bộ của cơ quan, gắn việc thực hiện này với tầm nhìn, sứ mệnh của cơ quan, đơn vị và tạo ra những tiêu chí cụ thể để soi chiếu. Bản thân người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải nhận thức được tầm quan trọng của mạng xã hội nói chung, có trách nhiệm xây dựng văn hoá ứng xử trên mạng xã hội nói riêng, thông suốt và có nhiều hành động nhằm thúc đẩy nó, coi đây là một nội dung trong quản lý hành vi con người, quản trị nhân sự. Một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến Bản Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam trong thời gian dài chưa thực sự phát huy hiệu quả, đó là các quy định đạo đức trên chưa được cụ thể hóa thành những quy định bắt buộc trong mỗi cơ quan báo chí, chưa thực sự trở thành các nguyên tắc ứng xử hàng ngày trong cơ quan cũng như trong thực tiễn tác nghiệp của các nhà báo.
Hiện tại, việc “tuân thủ quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo” đã được luật hoá, cụ thể được quy định tại Điều 25 về Quyền và nghĩa vụ của nhà báo của Luật Báo chí 2016. Trong 10 điều của bản Quy định đạo đức của người làm báo Việt Nam thì Điều 5 nêu rõ nhà báo cần: “Chuẩn mực và trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội và các phương tiện truyền thông khác”. Mới đây, Hội Nhà báo Việt Nam cụ thể hóa Điều 5 bằng một bộ quy tắc ứng xử, làm rõ các chuẩn mực và trách nhiệm của nhà báo trên mạng xã hội.
Cùng với đó, mỗi cơ quan báo chí cũng có thể xây dựng một bản quy tắc ứng xử trên mạng xã hội phù hợp với tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ, phong cách, đặc trưng, công chúng, lịch sử… của tờ báo. Đây sẽ là cơ chế kiểm soát mà tất cả mọi người trong cơ quan báo chí đều phải tuân theo. Bốn là, tăng sự ràng buộc và cơ chế giám sát của Bộ quy tắc. Người dùng mạng xã hội trước hết phải tuân thủ các quy định của pháp luật, nếu ai vi phạm hoặc xâm hại đến quyền và lợi ích của cá nhân hoặc tổ chức thì sẽ bị xử lý theo các quy định của pháp luật. Năm là, tăng cường vai trò giám sát của nhân dân, công chúng đối với việc tuân thủ Bộ quy tắc ứng xử trên mạng xã hội của của cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên. Bên cạnh sự quản lý, giám sát của các cấp, các ngành, của chính cơ quan nơi người sử dụng công tác thì sự tham gia giám sát của xã hội, công chúng đối với đội ngũ cán bộ, nhân viên nhà nước là điều rất cần thiết. Khi một hành vi ứng xử không phù hợp diễn ra, công chúng, cơ quan, luật pháp và xã hội cùng lên án thì sẽ tạo ra sự răn đe đủ mạnh.
Để sự giám sát của xã hội, cộng đồng mạng đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức… có hiệu quả, cần thực hiện một số điều sau: 1) Các quy định trong Bộ quy tắc phải rõ ràng, cụ thể, ngắn gọn để có thể trở thành những chuẩn mực để cộng đồng thẩm định, kiểm tra, soi vào khi có hành vi gây tranh cãi. 2) Sự giám sát công bằng của xã hội, cộng đồng cũng là một yếu tố tác động rất nhiều đến việc ứng xử trên mạng xã hội của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức... 3) Thường xuyên làm công tác tuyên truyền, vận động cộng đồng mạng tích cực lan toả những hành vi, hành động tích cực để giúp nhân lên điều tốt, và đặc biệt dám đấu tranh với cái xấu, cái tiêu cực để giành lại không gian sống lành mạnh cho mình và cộng đồng. 4) Thực hiện việc đăng, phát công khai các hành vi ứng xử vi phạm pháp luật và vi phạm Bộ quy tắc ứng xử khi đã có kết luận cuối cùng trên các phương tiện thông tin đại chúng và mạng xã hội nhằm bảo đảm sự công khai, minh bạch để nhân dân cùng biết và cùng lên án.
Trên thực tế, sẽ không có một giải pháp nào khả thi nếu đứng độc lập. Vì vậy, để Bộ quy tắc ứng xử trên mạng thực sự đi vào đời sống và phát huy hiệu quả thì cần có sự kết hợp của nhiều giải pháp với nhiều nguồn lực./.
PGS.TS. Nguyễn Thị Trường Giang
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn